Tiềm năng dồi dào
Vùng ven biển tỉnh Nghệ An hiện nay gồm 05 huyện, thị xã (Nghi Lộc, Diễn
Châu, Quỳnh Lưu, Cửa Lò và Hoàng Mai) với 34 xã, phường, thị trấn giáp biển;
tổng diện tích tự nhiên khoảng 1.296,6 km2, bằng 7,8% diện tích toàn tỉnh, bờ
biển dài 82 km với diện tích vùng biển khoảng 4230 hải lý vuông; từ độ sâu 40m
trở vào nói chung đáy biển tương đối bằng phẳng, từ độ sâu 40m trở ra có nhiều
đá ngầm, cồn cát. Vùng biển Nghệ An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá
trị kinh tế cao; dân số 1.003.358 người chiếm khoảng 29,4% dân số toàn tỉnh. Có
6 cửa lạch thuận lợi cho việc vận tải biển, phát triển cảng biển và nghề làm
muối (1000 ha).
Với mục tiêu đưa
kinh tế biển tỉnh Nghệ An đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển,
tập
trung nguồn lực khẩn trương đẩy nhanh tốc độ xây dựng tỉnh ta trở thành địa
phương biển mạnh, xứng đáng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh đồng thời hình thành văn
hoá sinh thái biển, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng;
từng bước đẩy lùi ô nhiễm, suy thoái môi trường biển; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển; kết hợp chặt
chẽ phát triển kinh tế biển, đảo gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ; đẩy nhanh xây dựng, phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp, dịch vụ
logistics, khu đô thị ven biển, khu du lịch theo hướng tiếp cận mô hình sinh
thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư góp phần đưa Nghệ An trở thành địa phương
có kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững.
Chuẩn bị đồng bộ về
mọi mặt để hình thành và phát triển hành lang kinh tế, sẵn sàng đón sóng đầu tư
các dự án trọng điểm
Tính đến
ngày 17/5/2024, toàn tỉnh Nghệ An có 3.462 tàu thuyền khai thác thủy sản, trong
đó, tàu cá thuộc diện phải đăng ký (có chiều dài lớn nhất từ 6m trở lên) là
2.565 chiếc. Trong đó, có 2.318 tàu đã thực hiện đăng ký (chiếm 90,37%), số tàu
cá chưa đăng ký là 247 chiếc. Việc hình thành và phát triển 4 hành lang kinh tế, gồm:
Hành lang kinh tế ven biển với trọng tâm là phát triển đô thị, công nghiệp công
nghệ cao, dịch vụ tổng hợp và các ngành kinh tế biển; Hành lang kinh tế đường
Hồ Chí Minh với trọng tâm là phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao;
công nghiệp chế biến nông, lâm sản, vật liệu xây dựng và du lịch sinh thái; Hành lang kinh tế Quốc lộ 7A với trọng tâm là
phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp hàng hóa quy mô lớn gắn với công nghiệp chế
biến; phát triển các loại hình du lịch sinh thái, mạo hiểm, cộng đồng; Hành
lang kinh tế Quốc lộ 48A với trọng tâm là phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến và kinh tế rừng, kinh tế dưới tán rừng,
dược liệu.
Dự án đường ven biển từ Nghi Sơn (Thanh
Hóa) đến Cửa Lò. Công trình có tổng mức đầu tư 4.651 tỷ đồng. Cung đường này
dài 64.47 km, sở hữu 8 cầu quy mô tham gia mạnh mẽ vào việc khai thác hiệu quả
tài nguyên biển và ven biển. Dự án Đại lộ Vinh - Cửa Lò, giai đoạn 1 có tổng
mức đầu tư 1.411 tỷ đồng; giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư là 1.415 tỷ đồng; tạo
trục không gian kiến trúc, tạo cơ sở để thu hút vốn đầu tư của nhiều doanh
nghiệp lớn cho địa phương. Đặc biệt, việc xây dựng Cảng nước sâu Cửa Lò với số
vốn lên tới 3.896 tỷ đồng sẽ giúp điểm đến này trở thành đầu mối giao thông
đường biển quan trọng. Nơi đây sẽ sớm trở thành trung tâm logistics, nắm giữ
vai trò phân phối hàng hóa trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đồng thời,
dự án còn đáp ứng tốt vai trò là động lực để thu hút đầu tư từ trong và ngoài
nước…
Các ngành kinh tế biển của tỉnh phát triển theo hướng bền
vững
Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng
thêm của vùng ven biển năm 2023 tăng 8,39 % so với năm 2022. Các ngành kinh tế
biển của tỉnh đã phát triển theo hướng bền vững, kiểm soát tài nguyên trong khả
năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Giá trị tăng thêm của kinh tế vùng ven biển
vào GRDP chung toàn tỉnh năm 2023 đạt 27,59 % (năm 2022 đạt 27,28 %). Năm 2023
giá trị tăng thêm bình quân đầu người vùng ven biển đạt 52,74 triệu đồng/người/năm,
tăng hơn 10 % so với năm 2022 (47,56 triệu đồng/người/năm). Các ngành kinh tế
biển của tỉnh đã phát triển theo hướng bền vững, kiểm soát tài nguyên trong khả
năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Sản lượng khai thác đạt gần
278.000 tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khai thác hải sản
đạt hơn 199.000 tấn; sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 63.000 tấn, tăng 6,14%
so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị kinh tế của thuỷ sản ước đạt 5.000 tỷ
đồng. Quý 1/2024,
tổng sản lượng thủy sản của tỉnh ước đạt 56.156,1 tấn. Diện tích nuôi trồng
thuỷ sản từ đầu năm 2024 đến nay đạt 18.595,5 ha, tăng 3,02 % so với cùng kỳ
năm trước.
Đa dạng
hóa các sản phẩm du lịch biển
Ngành du lịch đã tập trung khai thác các sản
phẩm du lịch như: Du lịch tắm biển kết hợp với thưởng thức văn hóa ẩm thực, mua
sắm; du lịch tham quan các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh; du lịch
công vụ, hội nghị, hội thảo; du lịch thể thao… Tổ chức khảo sát xây dựng mô
hình du lịch trải nghiệm làng nghề ven biển, từng bước thí điểm xây dựng mô
hình phát triển kinh tế ban đêm phù hợp với từng địa phương, trước mắt triển
khai tại thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò để phục vụ khách du lịch. Tập trung
liên kết, phối hợp các điểm đến du lịch tại các địa phương ven biển với các điểm
đến khác trong tỉnh nhằm tăng cường quảng bá, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du
khách như: Cửa Lò - Vinh - Nam Đàn - Cửa Lò, Vinh - Khu di tích Kim Liên - Vườn
quốc gia Pù Mát - Vinh…; đẩy mạnh khai thác tuyến du lịch Vinh, Cửa Lò đi Quỳ
Châu, Quế Phong theo quốc lộ 48 gắn với các điểm du lịch ven biển Diễn Châu, Quỳnh
Lưu, Hoàng Mai và Khu sinh thái Mường Thanh Diễn Lâm…; mở rộng tuyến du lịch
trên sông Lam gắn với tuyến du lịch thủy nội địa Cửa Lò - Đảo Ngư; đồng thời
tăng cường gắn kết du lịch Vinh, Cửa Lò với các tỉnh trong vùng…
Hàng năm,
Tỉnh tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư, thường xuyên nghiên cứu đổi mới cách tiếp
cận để xúc tiến đầu tư đi vào thực chất, qua đó giới thiệu, quảng bá tiềm năng
và thế mạnh về biển của tỉnh (du lịch, dịch vụ biển, năng lượng tái tạo, thủy sản,….);
tích cực huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho
phát triển bền vững kinh tế biển: Đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các thành phần
kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động
thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến từ
các nước phát triển. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển các xã
vùng ven biển; xã hội hoá đầu tư kết cấu hạ tầng, giao thông biển, đảo, các khu
đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt
động sản xuất kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ.
Phát triển kinh tế không những góp phần phát triển kinh tế
chung mà còn khơi dậy tinh thần trách nhiệm với chủ quyền quốc gia trên biển,
góp phần giữ vững từng cột mốc chủ quyền trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng của Tổ quốc. Những lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên mỗi
con tàu là linh hồn của Tổ quốc, là biểu tượng của ý chí, nghị lực, sự quyết
tâm, vững vàng vượt qua mọi sóng gió, sự đồng hành, kề vai sát cánh của các lực
lượng chức năng cùng ngư dân trên biển.
Đinh Thi Huyền Trâm – Sở
TT&TT